Lịch sử Người_Khương

Sơ kỳ

Trong các thư tịch Trung Hoa cổ đại, các cụm từ như người Khương, Tây Khương, rợ Khương thường được sử dụng như là thuật ngữ chung để chỉ các sắc tộc không phải người Hoa Hạ tại miền tây Trung Quốc ngày nay[1]. Các dân tộc này thường xuyên gây chiến với các cư dân trong lưu vực sông Hoàng Hà. Phải cho đến thời Tần Mục công khi nước Tần nổi lên thì sự bành trướng lãnh thổ của người Khương mới bị ngăn chặn có hiệu quả.

Vào thời Tam quốc người Khương cũng đã nổi lên như một thế lực biên cương hùng hậu và gây áp lực cho nhà Hán, họ thường liên kết với các thế lực quân phiệt cát cứ ở phía Tây Bắc để tạo thêm thế lực. Đặc biệt, họ đã từng hưởng ứng và tham chiến trong hàng ngũ thuộc lực lượng quân sự của Mã Siêu trong các trận Đồng Quantrận Ký Thành để chống lại triều đình.

Một thủ lĩnh của người Khương là Diêu Trường sau này lập ra vương quốc Hậu Tần (384-417) trong thời kỳ Thập lục quốc tại Trung Quốc. Nhưng một điều cần lưu ý là người Khương không phải một dân tộc riêng biệt cho tới khoảng 20-30 năm trước đây[1]. Thuật ngữ "Khương" (羌, chữ Hán gợi ý đó là những người chăn cừu) được sử dụng trong các thư tịch cổ Trung Hoa để nói chung tới các sắc tộc du mục khác nhau sinh sống tại miền tây và không có liên quan trực tiếp gì tới người Khương ngày nay. Chỉ trong vài thập niên gần đây thì các sắc tộc này mới tự nhận chính mình là người Khương[1].

Cấu trúc của ký tự 羌 cũng phản ánh quan điểm này. Nó bao gồm 2 thành phần: 人 (nhân: người) và 羊 (dương: dê, cừu), gợi ý rằng họ là những người chăn dê, cừu. Trong thời kỳ Đông Hán (25-220) và Ngụy-Tấn (220-420), người Khương sinh sống rộng khắp dọc theo các sườn núi ở miền bắc và đông cao nguyên Thanh Tạng, từ khu vực dãy núi Côn Lôn (崑崙山) trong tỉnh Tân Cương và miền đông Thanh Hải, tới miền nam tỉnh Cam Túc, miền tây tỉnh Tứ Xuyên và miền bắc tỉnh Vân Nam[1], tạo ra cái gọi là vành đai người Khương, theo thứ tự từ bắc xuống nam là Tham Lang Khương, Bạch Mã Khương, Bạch Cẩu Khương, Bạch Lang Khương, Thanh Y Khương, Mao Ngưu Khương v.v[1]. Thời kỳ này, các thư tịch Trung Hoa cũng có các cố gắng nhằm tách một số sắc tộc ra khỏi khái niệm chung này. Vì thế mà có các tộc người như Hồ, Đê, Di v.v. Tuy nhiên, sự phân biệt không phải luôn rõ ràng[1]. Cũng trong thời kỳ này những cuộc nổi dậy của người Khương dọc theo biên giới với Trung Quốc đã dẫn tới sự xâm nhập quy mô lớn của họ vào lãnh thổ Trung Quốc. Đây cũng là một yếu tố quan trọng trong việc phân rã cuối cùng của triều đại Đông Hán.

Trong thời kỳ từ Nam Bắc triều (420-589), tới nhà Tùy (589-619) và nhà Đường (620-907), một vài thể chế chính trị tương đối lớn đã xuất hiện tại miền tây Trung Quốc, như các liên minh bộ lạc Đãng Xương, Đặng Chí, Đảng Hạng, Thổ Cốc HồnThổ Phồn. Trong sử sách Trung Hoa, phần lớn dân của các chế độ này là người Khương hay chư Khương[1].

Sự nổi lên của Thổ Phồn trong thế kỷ 7 đặc biệt đáng chú ý. Sự bành trướng nhanh chóng sang hướng đông của vương quốc này đã gây ra một loạt vụ đối đầu với nhà Đường dọc theo sườn đông cao nguyên Thanh Tạng; một vành đai kéo dài từ miền nam Cam Túc về phía nam tới bắc Vân Nam, với dân cư của vành đai này được người Hán gọi là Khương. Từ giữa thế kỷ 7 tới thế kỷ 8, Thổ Phồn xâm chiếm gần như toàn bộ vành đai này và nhiều liên minh bộ lạc của người Khương, như Đảng Hạng, Dương Đồng, Đãng Xương và Đặng Chí trở thành nạn nhân của vương quốc này[1].

Sau sự sụp đổ của Thổ Phồn trong thế kỷ 9 và ngay cả sau khi nổi lên cũng như sụpp đổ của vương quốc Tây Hạ (1038-1227) với cư dân của nó chủ yếu là người Đảng Hạng Khương, thì ảnh hưởng của văn hóa Tạng vẫn còn tồn tại trong vành đai ngoại biên này. Điều này không chỉ do phần lớn khu vực này vẫn còn được các thủ lĩnh địa phương, các hậu duệ của giới quý tộc hay tướng lĩnh Thổ Phồn, kiểm soát và cai trị mà còn do Lạt ma giáo đã trải rộng khắp khu vực ngoại biên này trong thời kỳ nhà Nguyên (1271-1368) và nhà Minh (1368-1644). Kết quả là, từ nhà Tống (960-1279) trở đi, đặc biệt là thời Minh-Thanh, nhãn sắc tộc phổ biến nhất mà người Hán gán cho các cư dân bản địa của khu vực này đã trở thành Phiên (番). Nhãn sắc tộc này được gán cho cư dân của Thổ Phồn trước kia cũng như của các dân tộc "man di mọi rợ"[1] miền tây.

Từ thế kỷ 14 tới thế kỷ 19, trong các trường hợp hiếm hơn thì các thuật ngữ Khương Nhung (rợ Khương), chư Khương (các bộ lạc Khương), và thường xuyên hơn là các thuật ngữ Phiên và Di, vẫn được áp dụng cho một phạm vi rộng các sắc tộc phi Hán ở miền tây theo ý nghĩa chung, nhưng chỉ có người Phiên sống tại thượng nguồn sông Dân và khu vực Bắc Xuyên cận kề mới được ghi chép là Khương, Khương dân. Đáng chú ý là trong thời kỳ này người Hán luôn dùng thuật ngữ Khương dân để chỉ cư dân bản địa đã Hán hóa nhiều hơn từ châu Mậu tới huyện Quán, những người đã đăng ký các quyền công dân với chính quyền của người Hán địa phương, trong khi họ sử dụng các thuật ngữ Phiên, Sinh Phiên và Phiên Khương để chỉ những người ít Hán hóa hơn tại Tùng Phan, Điệp Khê và Hắc Thủy cận kề. Tuy nhiên, trong các sử liệu Minh-Thanh thì Phiên chắc chắn là sự nhận dạng phổ biến nhất đối với các sắc tộc sống tại thượng nguồn sông Dân và khu vực Bắc Xuyên[1].

Gần đây

Hiện tại, người Khương tự nhận chính mình là Khương tộc (羌族) hay Nhĩ Mã (尔玛). Có khoảng 306.000 người Khương sinh sống tại miền tây Tứ Xuyên, chủ yếu trong 4 huyện Mậu, Vấn Xuyên, Hắc Thủy của châu tự trị dân tộc Tạng-Khương A Bá cũng như 2 huyện Bắc XuyênBình Vũ của địa cấp thị Miên Dương. Ngày 12 tháng 5 năm 2008, khu vực sinh sống của người Khương hứng chịu ảnh hưởng nặng nề của trận động đất lớn, với chấn tâm trong huyện Vấn Xuyên[2].

Người Khương ngày nay là các cư dân miền núi. Một làng phòng thủ hay trại (寨), bao gồm 30 tới 100 hộ gia đình nói chung là đơn vị xã hội cơ bản phía trên hộ gia đình[1]. Trung bình từ 2 tới 5 làng phòng thủ nằm trong một thung lũng nhỏ dọc theo các con suối chân núi, gọi là câu (溝), tạo ra một cụm làng (hay thôn, 村)[1]. Các cư dân của các làng phòng thủ hay cụm làng có quan hệ gần gũi trong đời sống xã hội. Trong các thung lũng nhỏ này, người dân gieo trồng trên các mảnh ruộng bồi tích hẹp dọc theo các con suối hay các địa hình miền núi, săn bắt động vật hoặc thu nhặt nấm ăn và các loại thảo vật (làm thức ăn hay thuốc trị bệnh) trong các cánh rừng cận kề, chăn thả bò Tây Tạngngựa trên các bãi cỏ đỉnh núi, đồi[1]. Trong quá khứ, tranh giành bạo lực giữa các làng cũng hay xảy ra.

Từ quan điểm của ngôn ngữ học, mọi người Khương hiện đại đều nói một trong hai thứ tiếng của ngữ chi Khương, các thứ tiếng của ngữ tộc Tạng-Miến trong ngữ hệ Hán-Tạng. Tuy nhiên, các phương ngữ này là quá khác biệt đến mức giao tiếp giữa các nhóm Khương khác nhau thường sử dụng tiếng Trung làm ngôn ngữ giao tiếp trung gian. Do không có chữ viết riêng nên người Khương cũng sử dụng chữ Hán trong các giao dịch. Bắt đầu từ thập niên 1980, những người Khương có học thức đã bắt đầu xây dựng hệ thống chữ viết riêng (sử dụng bảng chữ cái Latinh) và soạn từ điển tiếng Khương, dựa trên phương ngữ Khúc Cốc (曲谷) chuẩn hóa. Từ năm 1994, có thêm nhiều giáo viên biết tiếng Khương và hệ thống chữ viết này đã được gửi tới các vùng làng quê để giảng dạy[1].